Khi một người nói tiếng Anh, họ không đính từng từ riêng biệt thành một câu. Thay vào đó, mỗi từ họ nói ra sẽ tự động dẫn tới các từ tiếp theo, khiến tổng thể cả câu giống như một chuỗi các từ liên kết lại với nhau.
Ví dụ, khi có ai đó hỏi “Would you like to come along to a party on Saturday night?”, thông thường câu trả lời sẽ bắt đầu bằng “Thanks for…” và sau đó là các từ như “…asking” hoặc “…inviting”. Và bạn thử nghĩ xem, ngay khi bạn nói từ đầu tiên, trong đầu bạn đã tự động xuất hiện các từ còn lại của câu trả lời rồi đúng chứ?
Đó là một ví dụ rất cơ bản của việc liên kết các từ thành một cụm từ hoặc một câu thường đi với nhau trong tiếng Anh, hay còn gọi là collocation. Những người nói tiếng Anh sẽ cảm thấy việc nói tiếng Anh trở nên dễ dàng nếu vốn từ vựng của họ được xây dựng bằng nền ctảng của các collocation thay vì các từ riêng lẻ. Ví dụ, câu trả lời phía trên là một câu trả lời rất đơn giản, đến mức một người không biết gì về tiếng Anh cũng có khả năng trả lời được.
Bạn có thể đã học được các từ này bằng cách bắt chước theo những người nói tiếng Anh khác bởi chắc hẳn bạn đã ít nhất một lần nghe người khác nói “Thanks for asking” hay “Thanks for inviting”, và bằng cách này thì những câu như vậy đã ghi sâu vào não bộ của bạn. Dĩ nhiên, chỉ nghe một vài lần không thể khiến bạn thành thạo ngay được, bạn cần có sự kuyện tập để đưa những cụm từ đó vào vốn từ vựng chủ động của bạn. Tuy nhiên, không thể phủ nhận trong một vài trường hợp thì cách này vẫn có hiệu quả.
Thế nhưng khi bạn sử dụng sai phương pháp học dẫn đến kết hợp sai các từ tiếng Anh, bạn có thể đã tạo ra những collocation không tự nhiên, không hợp lý. Ví dụ, sau khi nói những từ đầu tiên, thay vì tiếp tục với các từ liên kết với các từ trước một cách hợp lý, bạn lại sử dụng các từ không hợp lý, hoặc sai ngữ cảnh. Lâu dần, các collocation không đúng ấy lại trở thành “đúng”, hoặc “quen miệng” đối với bạn, dẫn đến việc sử dụng sai gây khó hiểu cho người khác.
Khá kỳ lạ đúng không? Nhưng đó chính xác là điều mà những người đang học tiếng Anh phải đối mặt khi họ sử dụng sai phương pháp học tiếng Anh.
Vì vậy, hôm nay, tôi sẻ chỉ cho các bạn những phương pháp học tệ nhất trong số đó để bạn cs thể tránh làm theo.
Ghi nhớ các từ dựa trên nghĩa của nó dịch từ tiếng mẹ đẻ
Việc tra cứu một từ lạ trong từ điển Anh – Việt để hiểu nghĩa của nó không phải điều gì sai, bởi hiển nhiên có những từ cần được dịch sang tiếng Việt mới có thể giúp bạn dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, việc phụ thuộc quá nhiều vào lối suy nghĩ bằng tiếng Việt cũng như nghĩa và cấu trúc của các từ trong tiếng Việt có thể khiến bạn tạo ra những “bản dịch” tiếng Anh kỳ quặc và không hợp lý, đặc biệt là khi bạn đang học các sử dụng và suy nghĩ bằng tiếng Anh.
Tra nghĩa của từ tiếng Anh là một việc, nhưng ghi nhớ các từ ấy lại là một việc khác hoàn toàn. Việc ghi nhớ yêu cầu bạn phải sử dụng từ đó một số lượng lần đủ lớn, và nếu bạn cứ liên tục lặp lại các từ đó cùng với nghĩa tiếng Việt của chúng, bạn sẽ quen dần với sự kết hợp của từ tiếng Anh và nghĩa tiếng Việt của từ đó.
Để dễ hiểu hơn, chúng ta hãy lấy ví dụ với từ “acquire” có nghĩa là “có được, đạt được”. Khi học từ này, tôi liên tục lặp đi lặp lại “acquire là đạt được”, “acquire là đạt được”, “acquire đạt được”… Lâu dần, tôi đã nhớ nghĩa của từ acquire, nhưng đồng thời mỗi khi nhắc đến từ “acquire” trong đầu tôi sẽ tự xuất hiện từ “đạt được” đằng sau, tạo thành một liên kết kỳ lạ giữa một từ tiếng Việt và một từ tiếng Anh.
Tất nhiên, bạn sẽ không sử dụng cụm từ liên kết này. Nhưng khi bạn dùng từ tiếng Anh, trong não bạn sẽ xuất hiện từ tiếng Việt. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến dòng suy nghĩ của bạn, dẫn đến sự trôi chảy khi giao tiếp của bạn cũng bị ảnh hưởng theo.
Ghi nhớ nhiều nghĩa của cùng một từ và học nhiều collocation tương tự nhau cùng một lúc
Khi mới bắt đầu học tiếng Anh, mỗi khi học một từ tiếng Anh mới, tôi thường tra nghĩa tất cả các nghĩa tiếng Việt của nó cùng một lúc và sau đó là học thuộc tất cả các nghĩa tiếng Việt mà mình tìm được. Sau đó, khi gặp từ ấy trong quá trình học tiếng Anh, tôi lại mất thời gian suy nghĩ xem trong hoàn cảnh ấy, nghĩa của từ này là gì.
Vì vậy, đừng mắc sai lầm giống tôi. Thay vào đó, hãy học nghĩa của từ dựa trên ngữ cảnh và ghi nhớ toàn bộ cụm từ trong ngữ cảnh đó, và chắc chắn rằng bản thân đã nắm chắc nghĩa đó rồi mới học sang nghĩa tiếp theo của từ ấy thay vì học tất cả các nghĩa của từ cùng một lúc. Điều ấy sẽ giúp bạn không nhầm lẫn các nghĩa của từ với nhau.
Tuy nhiên, nếu bạn học từ theo cụm, tức là học collocation, bạn cũng nên cẩn thận phương pháp mình sử dụng để học.
Tôi thường thấy mọi người đưa ra một danh sách các collocation sắp xếp theo từ bắt đầu của collocation đó, ví dụ như ‘break a habit’, ‘break the rules’, ‘break a promise’ và ‘break the mold”, sau đó học theo danh sách này. Cách này khá phổ biến, nhưng tôi không cho rằng đây là cách học phù hợp cho các collocation. Thay vào đó, bạn nên học các collocation theo từng nhóm chủ đề.
Ví dụ, nếu học collocation theo danh sách từ có chung từ khởi đầu, khi bạn bắt đầu với từ “break…”, lúc đó trong đầu bạn sẽ xuất hiện rất nhiều lựa chọn như “A habit… the rules… the mold… a promise…”. Khi ấy, việc lựa chọn collocation thích hợp sẽ khiến bạn bị lúng túng. Và kể cả bạn đã biết chính xác mình sẽ dùng collocation gì, thì những sự lựa chọn khác xuất hiện cũng sẽ ảnh hưởng đến mạch suy nghĩ của các bạn, dẫn đến khả năng bạn sẽ gặp khó khăn khi duy trì sự trôi chảy khi giao tiếp.
Thay vào đó, hãy học các collocation theo cùng nhóm chủ đề, ví dụ như các cụm ‘break the rules’, ‘breach of contract’, ‘commit a crime’,… Nhờ vậy, nếu bạn đang nói về chủ đề liên quan đến các vấn đề pháp lý, bạn sẽ có rất nhiều cụm từ để có thể duy trì sự trôi chảy và kéo dài cuộc trò chuyện, khiến nó trở nên hấp dẫn và phong phú hơn.
Ghi nhớ các từ theo liên kết về mặt ngữ pháp những không được sử dụng ngoài đời thực
Để dễ hiểu, nếu bạn muốn học cách sử dụng các dạng khác nhau của cùng một từ, từ học thuộc chúng theo chuỗi, thay vào đó hãy đặt từng từ vào những ngữ cảnh riêng để sử dụng.
Ví dụ, đối với động từ “shrink”, việc học một chuỗi ‘shrink, shrank, shrunk’ sẽ khiến bạn gặp khó khăn hơn khi dùng các từ này một cách độc lập. Thay vào đó, hãy đặt các từ này vào một ngữ cảnh cụ thể để nhớ từng dạng của từ và hiểu được cách sử dụng chúng.
“Is this going to shrink if I wash it?” – hãy ghi nhớ câu này trong khi bạn đang nhìn vào một chiếc áo phông hoặc một cái quần bò. Nhờ vậy, não bạn sẽ hình thành mối liên kết giữa động từ ‘shrink’ và quần áo, và đó chính là điều bạn cần nhớ được, bởi ở thì hiện tại đơn, động từ này thường được sử dụng để nói về quần áo.
“Profits shrank…”, “I shrank back…” – Đây là các cụm từ thông dụng có chứa dạng quá khứ của động từ này – “shrank”. Bạn có thể học các động từ này bằng cách đặt nó vào các câu cụ thể như “Our company’s profits shrank by 20% last year”. “I shrank back when I pulled out the box and saw a dead rat.”
‘Shrunken clothing’ – Dạng PII của “shrink” là ‘shrunk’ hoặc ‘shrunken’. Và dạng sau thường được sử dụng trong các collocation như shrunken clothing’ và ‘shrunken dress’.
Bằng cách đặt các dạng của từ vào từng ngữ cảnh với các collocation phù hợp với nó, bạn có thể ghi nhớ từ vựng và hiểu rõ hơn về cách sử dụng từ đó, thay vì phải ghi nhớ một chuỗi liên kết các từ kỳ quặc mà bạn không bao giờ dùng: “shrink, shrank, shrunk”. Vậy theo bạn, cách học nào sẽ thực tế hơn?
Với bản thân tôi, tôi luôn có xu hướng lựa chọn các cách học mang tính thực tế cao, tức là cách làm thế nào để những người học tiếng Anh như bạn và tôi có thể ghi nhớ và sử dụng các từ mới dễ dàng nhất trong đời sống thực tế.
Vì vậy, trên đây tôi đã chỉ ra 3 cách học khiến bạn có suy nghĩ mình đang học tiếng Anh nhanh, nhưng thực tế lại khiến bản thân bạn gặp vấn đề bởi các cụm từ không hợp lý mà bạn đã “quen mồm” sử dụng.
Tôi không cho rằng bản thân đã khám phá ra một kiến thức mới. Trên thực tế, rất nhiều giáo viên đã nói đến vấn đề này. Nhưng đáng buồn thay, do ảnh hưởng của việc học tiếng Anh trên trường lớp coi trọng điểm số, nhiều người thay vì hướng đến tính thực tế và hiệu quả của một phương pháp học từ mới, lại lựa chọn phương pháp học khiến học sinh ghi nhớ nhiều từ vựng hơn, nhưng lại không thể sử dụng các từ này một cách hiệu quả,